Năm 2022, Việt Nam đã xuất khẩu 48,8 tỷ USD hàng dệt may, tự hào là nước xuất khẩu dệt may lớn thứ 3 thế giới. Ngành dệt may chiếm vị trí thứ 2 trong danh sách các sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Ở chiều ngược lại, Việt Nam nhập khẩu 27,5 tỷ USD hàng dệt may, xếp thứ 9 trên thế giới về nhập khẩu dệt may.
1. Tổng quan thị trường dệt may toàn cầu
Năm 2022, dệt may (Nguyên liệu dệt và các sản phẩm dệt), HS XI, là sản phẩm giao dịch nhiều thứ 7 trên thế giới với tổng giá trị thương mại đạt 941 tỷ USD, chiếm 3,97% tổng thương mại toàn cầu. So với năm 2021, kim ngạch xuất khẩu ngành này đã tăng 6,8%, từ 881 tỷ USD lên 941 tỷ USD. Sự gia tăng này cho thấy sức hút mạnh mẽ của ngành dệt may trên thị trường quốc tế, dù chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố kinh tế bất ổn.
Các mặt hàng dệt may có giao dịch lớn nhất thế giới theo mã HS6 năm 2022 bao gồm: Phụ kiện quần áo đan (290 tỷ USD), phụ kiện quần áo không đan (254 tỷ USD), quần áo cũ & sản phẩm dệt may đã qua sử dụng (85,7 tỷ USD), bông (63,9 tỷ USD), và sợi nhân tạo (56,7 tỷ USD).
Sự đa dạng trong các sản phẩm này cho thấy nhu cầu của ngành dệt may không chỉ tập trung vào thời trang mà còn lan rộng sang các loại vật liệu như bông và sợi nhân tạo, với những nước có nhu cầu lớn vẫn đang duy trì sức mua mạnh.
Thị trường xuất khẩu dệt may toàn cầu
Năm 2022, các quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất bao gồm Trung Quốc (303 tỷ USD), Bangladesh (57,7 tỷ USD), Việt Nam (48,8 tỷ USD), Ấn Độ (41,1 tỷ USD), và Đức (40 tỷ USD).
Trong giai đoạn 2021-2022, xuất khẩu dệt may tăng mạnh nhất tại Trung Quốc (tăng 18,8 tỷ USD), Bangladesh (tăng 10,6 tỷ USD), Hoa Kỳ (tăng 5,08 tỷ USD), Việt Nam (tăng 4,92 tỷ USD), và Campuchia (tăng 2,85 tỷ USD).
Điều này phản ánh khả năng cạnh tranh và tiềm năng tăng trưởng của các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Việt Nam và Bangladesh, khi các nước này đang tiếp tục khẳng định vị thế trên thị trường dệt may toàn cầu.
Trong năm 2022, các quốc gia hưởng lợi có thặng dư thương mại dệt may lớn nhất bao gồm Trung Quốc (276 tỷ USD), Bangladesh (39,8 tỷ USD), Ấn Độ (29 tỷ USD), Thổ Nhĩ Kỳ (21,9 tỷ USD), và Việt Nam (21,3 tỷ USD). Trong khi đó, những quốc gia có thâm hụt thương mại dệt may lớn nhất gồm Hoa Kỳ (118 tỷ USD), Đức (29,3 tỷ USD), Nhật Bản (27,2 tỷ USD), Vương quốc Anh (26,2 tỷ USD), và Pháp (17,4 tỷ USD).
Sự chênh lệch này cho thấy vai trò của các quốc gia xuất khẩu chính, đặc biệt là khu vực châu Á, trong việc cung cấp hàng hóa dệt may cho các thị trường nhập khẩu lớn ở phương Tây.
Thị trường nhập khẩu dệt may toàn cầu
Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu dệt may lớn nhất thế giới với giá trị 148 tỷ USD vào năm 2022, theo sau là Đức (69,3 tỷ USD), Nhật Bản (35,3 tỷ USD), Pháp (35,2 tỷ USD), và Vương quốc Anh (33,7 tỷ USD).
Trong giai đoạn 2021-2022, Hoa Kỳ, Ý, Kyrgyzstan, Đức và Thổ Nhĩ Kỳ là những quốc gia có mức tăng trưởng nhập khẩu dệt may nhanh nhất.
Sự gia tăng nhập khẩu tại Hoa Kỳ và châu Âu phần nào phản ánh nhu cầu tiêu dùng phục hồi sau đại dịch, và sự phụ thuộc của các nước này vào nguồn cung dệt may từ châu Á.
2. Xuất khẩu dệt may của Việt Nam
Năm 2022, Việt Nam đã xuất khẩu 48,8 tỷ USD hàng dệt may, trở thành nước xuất khẩu dệt may lớn thứ 3 thế giới. Ngành dệt may chiếm vị trí thứ 2 trong danh sách các sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Điều này cho thấy tầm quan trọng của dệt may đối với nền kinh tế xuất khẩu của đất nước, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và nhu cầu tiêu dùng quốc tế đang gia tăng.
Các thị trường xuất khẩu dệt may chủ yếu của Việt Nam bao gồm: Hoa Kỳ (19,1 tỷ USD), Nhật Bản (4,72 tỷ USD), Hàn Quốc (4,39 tỷ USD), Trung Quốc (3,52 tỷ USD), và Canada (1,57 tỷ USD).
Sự tập trung vào các thị trường lớn như Hoa Kỳ và Nhật Bản phản ánh chiến lược đa dạng hóa thị trường xuất khẩu của Việt Nam, giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào một vài đối tác lớn. Điều này cũng giúp ngành dệt may Việt Nam phát triển ổn định, ngay cả khi một số thị trường gặp khó khăn.
Giữa năm 2021 và 2022, các thị trường có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất về xuất khẩu dệt may của Việt Nam là Hoa Kỳ (tăng 1,99 tỷ USD), Nhật Bản (tăng 724 triệu USD), và Canada (tăng 405 triệu USD). Ngược lại, các thị trường xuất khẩu dệt may suy giảm mạnh nhất của Việt Nam trong cùng giai đoạn bao gồm Trung Quốc (giảm 970 triệu USD, tương đương -21,6%), Nga (giảm 183 triệu USD, tương đương -42,8%), và Áo (giảm 101 triệu USD, tương đương -72%).
Điều này cho thấy dù Việt Nam vẫn giữ vững các thị trường lớn, việc suy giảm ở một số thị trường nhỏ hơn có thể do tác động của căng thẳng chính trị hoặc suy thoái kinh tế cục bộ, đặc biệt là ở Nga và Trung Quốc.
3. Các mặt hàng dệt may xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam
Năm 2022, Việt Nam xuất khẩu gần 720 loại sản phẩm dệt may với tổng giá trị xuất khẩu đạt 48,77 tỷ USD, giúp Việt Nam đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu dệt may. Đây là một ngành xuất khẩu mũi nhọn của đất nước, mang lại nguồn thu lớn và đóng góp quan trọng cho nền kinh tế. Dưới đây là chi tiết các nhóm sản phẩm dệt may xuất khẩu chính của Việt Nam:
Tơ tằm (HS 50)
Việt Nam đã xuất khẩu 9 loại sản phẩm tơ tằm (lụa) khác nhau với tổng giá trị 148,16 triệu USD. Các sản phẩm xuất khẩu chính bao gồm: lụa thô (98,65 triệu USD), chỉ tơ tằm (32,83 triệu USD), và vải dệt từ tơ tằm trên 85% (13,72 triệu USD).
Lông cừu, lông động vật loại mịn hoặc loại thô; sợi từ lông đuôi hoặc bờm ngựa và vải dệt thoi từ các nguyên liệu trên (HS 51)
Việt Nam xuất khẩu 27 loại sản phẩm từ len và lông động vật với tổng giá trị 31,97 triệu USD. Trong đó, sợi len chải trên 85% len, không bán lẻ là sản phẩm có giá trị lớn nhất, đạt 27,11 triệu USD.
Bông (Cotton) (HS 52)
Với 117 loại sản phẩm bông (cotton) xuất khẩu, tổng giá trị đạt 3,43 tỷ USD. Các sản phẩm chủ đạo gồm sợi bông, vải denim, và vải dệt từ bông.
Xơ dệt gốc thực vật khác; sợi giấy và vải dệt thoi từ sợi giấy (HS 53)
Việt Nam xuất khẩu 18 loại sản phẩm với tổng giá trị 35,72 triệu USD, trong đó các sản phẩm chính là sợi thực vật chưa kéo, xơ lanh, và xơ lanh phế liệu.
Sợi filament nhân tạo; sợi dạng dải và các dạng tương tự từ nguyên liệu dệt nhân tạo (HS 54)
Với 61 loại sản phẩm từ sợi nhân tạo, tổng giá trị xuất khẩu đạt 1,67 tỷ USD. Các sản phẩm chính bao gồm sợi nylon/polyamide chưa xoắn, sợi polyester không dùng để may, và sợi polyester có cấu trúc.
Xơ, sợi staple nhân tạo (HS 55)
Việt Nam xuất khẩu 102 sản phẩm thuộc nhóm này, với tổng giá trị 786,98 triệu USD. Sợi polyester và cotton không bán lẻ là sản phẩm tiêu biểu trong nhóm này.
Mền xơ, phớt và các sản phẩm không dệt; các loại sợi đặc biệt; sợi xe, sợi coóc (cordage), sợi xoắn thừng, sợi cáp và các sản phẩm của chúng (HS 56)
Việt Nam xuất khẩu 23 loại sản phẩm với tổng giá trị 528,95 triệu USD, trong đó sản phẩm phi dệt và lưới dệt từ sợi nhân tạo là những mặt hàng chủ yếu.
Thảm và các loại hàng dệt trải sàn khác (HS 57)
21 sản phẩm thuộc nhóm thảm và phủ sàn được xuất khẩu với tổng giá trị 430,28 triệu USD. Thảm từ sợi nhân tạo và thảm nỉ là các sản phẩm xuất khẩu chính.
Các loại vải dệt thoi đặc biệt; các loại vải dệt chần sợi vòng; hàng ren; thảm trang trí; hàng trang trí; hàng thêu (HS 58)
Với 36 sản phẩm khác nhau, nhóm này có tổng giá trị xuất khẩu 222,46 triệu USD. Vải dệt co giãn và vải dệt từ sợi nhân tạo là những sản phẩm đáng chú ý.
Các loại vải dệt đã được ngâm tẩm, tráng, phủ hoặc ép lớp; các mặt hàng dệt thích hợp dùng trong công nghiệp (HS 59)
Việt Nam xuất khẩu 23 sản phẩm với tổng giá trị 1,09 tỷ USD, chủ yếu là các loại vải sợi polyester dùng trong công nghiệp và vải phủ polyurethane.
Các loại hàng dệt kim hoặc móc (HS 60)
17 sản phẩm thuộc nhóm này được xuất khẩu với tổng giá trị 1,33 tỷ USD, với các sản phẩm chính là vải dệt kim từ sợi cotton và sợi nhân tạo.
Quần áo và hàng may mặc phụ trợ, dệt kim hoặc móc (HS 61)
Là nhóm mặt hàng có giá trị lớn nhất với tổng giá trị 19,1 tỷ USD, nhóm sản phẩm dệt kim xuất khẩu chủ yếu bao gồm áo len, áo cardigan từ cotton và quần áo từ sợi tổng hợp.
Quần áo và hàng may mặc phụ trợ, không dệt kim hoặc móc (HS 62)
Việt Nam xuất khẩu 112 sản phẩm thuộc nhóm này với tổng giá trị 17,47 tỷ USD, bao gồm áo khoác nam và nữ từ sợi tổng hợp và áo ngực.
Các mặt hàng dệt đã hoàn thiện khác; bộ vải; quần áo dệt cũ và các loại hàng dệt cũ khác; vải vụn (HS 63)
Với tổng giá trị 2,49 tỷ USD, các sản phẩm chính của nhóm này bao gồm túi xách từ polyethylene hoặc polypropylene và khăn nhà bếp bằng vải cotton.
4. Nhập khẩu dệt may của Việt Nam
Năm 2022, Việt Nam nhập khẩu 27,5 tỷ USD hàng dệt may, xếp thứ 9 trên thế giới về nhập khẩu dệt may. Cùng năm đó, hàng dệt may là sản phẩm nhập khẩu lớn thứ 4 tại Việt Nam.
Việt Nam chủ yếu nhập khẩu hàng dệt may từ: Trung Quốc (16,1 tỷ USD), Đài Loan (2,36 tỷ USD), Hàn Quốc (2,31 tỷ USD), Hoa Kỳ (1,23 tỷ USD), và Australia (1,19 tỷ USD).
Giữa năm 2021 và 2022, các thị trường nhập khẩu dệt may tăng trưởng nhanh nhất tại Việt Nam là Trung Quốc (tăng 1,63 tỷ USD), Australia (tăng 577 triệu USD), và Hoa Kỳ (tăng 61,2 triệu USD).
Xu hướng nhập khẩu dệt may từ các quốc gia lớn như Trung Quốc cho thấy sự phụ thuộc của ngành dệt may Việt Nam vào nguyên liệu và công nghệ từ bên ngoài, giúp duy trì chuỗi cung ứng và đảm bảo nguồn hàng sản xuất cho thị trường xuất khẩu.
5. Các mặt hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu hàng đầu
Năm 2022, Việt Nam nhập khẩu hơn 720 loại sản phẩm dệt may với tổng giá trị lên tới 27,47 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu bao gồm bông (5,4 tỷ USD), sợi nhân tạo (4,3 tỷ USD), và sợi nhân tạo dạng sợi ngắn (2,1 tỷ USD). Dưới đây là chi tiết về các nhóm sản phẩm nhập khẩu chính trong ngành dệt may.
Tơ tằm (HS 50)
Việt Nam đã nhập khẩu 9 sản phẩm tơ tằm (lụa) khác nhau với tổng giá trị 90,66 triệu USD. Các sản phẩm nhập khẩu chính gồm lụa thô chưa kéo, vải dệt từ lụa trên 85% và chỉ tơ tằm không bán lẻ.
Lông cừu, lông động vật loại mịn hoặc loại thô; sợi từ lông đuôi hoặc bờm ngựa và vải dệt thoi từ các nguyên liệu trên (HS 51)
Có 28 sản phẩm thuộc nhóm len và lông động vật được nhập khẩu với tổng giá trị 340,76 triệu USD. Các sản phẩm chính bao gồm sợi len chải trên 85% len, sợi lông động vật mịn chưa chải, và len thô đã chải.
Bông (Cotton) (HS 52)
Nhóm sản phẩm bông (cotton) có tới 120 loại được nhập khẩu, với tổng giá trị 5,41 tỷ USD. Những sản phẩm chủ yếu là bông chưa chải, vải denim từ bông pha sợi nhân tạo, và vải denim từ bông trên 85%.
Xơ dệt gốc thực vật khác; sợi giấy và vải dệt thoi từ sợi giấy (HS 53)
Việt Nam nhập khẩu 22 sản phẩm từ sợi thực vật với tổng giá trị 171,24 triệu USD. Các mặt hàng chủ yếu là vải dệt từ lanh dưới 85%, vải dệt từ lanh trên 85%, và vải dệt từ sợi thực vật khác.
Sợi filament nhân tạo; sợi dạng dải và các dạng tương tự từ nguyên liệu dệt nhân tạo (HS 54)
Với 63 sản phẩm thuộc nhóm sợi nhân tạo, tổng giá trị nhập khẩu đạt 4,31 tỷ USD. Các sản phẩm chính là vải dệt từ sợi polyester chưa cấu trúc trên 85%, vải dệt từ nylon và polyamide đã nhuộm, và vải dệt từ polyester đã nhuộm.
Xơ, sợi staple nhân tạo (HS 55)
Nhóm này có 105 sản phẩm với tổng giá trị 2,11 tỷ USD. Các sản phẩm chủ đạo bao gồm sợi polyester chưa chải, vải dệt từ sợi polyester trên 85%, và vải dệt từ polyester pha viscose.
Mền xơ, phớt và các sản phẩm không dệt; các loại sợi đặc biệt; sợi xe, sợi coóc (cordage), sợi xoắn thừng, sợi cáp và các sản phẩm của chúng (HS 56)
Có 23 sản phẩm thuộc nhóm Các sản phẩm từ bông ép, nỉ và sợi (HS 56) được nhập khẩu với tổng giá trị 1,09 tỷ USD. Các sản phẩm chính gồm vải phi dệt, bông ép từ sợi nhân tạo, và lưới đánh cá làm từ sợi nhân tạo.
Thảm và các loại hàng dệt trải sàn khác (HS 57)
Nhóm này có 21 sản phẩm với tổng giá trị nhập khẩu 150,93 triệu USD. Những sản phẩm chính là thảm từ sợi nhân tạo, thảm dệt từ nylon và polyamide.
Các loại vải dệt thoi đặc biệt; các loại vải dệt chần sợi vòng; hàng ren; thảm trang trí; hàng trang trí; hàng thêu (HS 58)
Với 37 sản phẩm nhập khẩu khác nhau thuộc nhóm Vải dệt đặc biệt và thảm thêu (HS 58), tổng giá trị đạt 988,34 triệu USD. Các sản phẩm tiêu biểu gồm vải dệt từ sợi nhân tạo dưới 30 cm, lưới dệt không phải vải và vải dệt co giãn dưới 30 cm.
Các loại vải dệt đã được ngâm tẩm, tráng, phủ hoặc ép lớp; các mặt hàng dệt thích hợp dùng trong công nghiệp (HS 59)
Nhóm Vải phủ, vải công nghiệp (HS 59) có 24 sản phẩm với tổng giá trị nhập khẩu 1,98 tỷ USD, chủ yếu là các loại vải phủ polyurethane, vải phủ nhựa và vải phủ PVC.
Các loại hàng dệt kim hoặc móc (HS 60)
Việt Nam nhập khẩu 17 sản phẩm thuộc nhóm vải dệt kim với tổng giá trị 7,08 tỷ USD. Các sản phẩm chủ yếu là vải dệt kim từ sợi nhân tạo, vải dệt kim rộng hơn 30 cm và vải dệt kim từ cotton.
Quần áo và hàng may mặc phụ trợ, dệt kim hoặc móc (HS 61)
Nhóm sản phẩm này có tổng giá trị nhập khẩu 1,53 tỷ USD, với các sản phẩm chính là áo len và áo cardigan từ sợi nhân tạo và cotton, cùng với áo phông và áo ba lỗ từ cotton.
Quần áo và hàng may mặc phụ trợ, không dệt kim hoặc móc (HS 62)
Nhóm sản phẩm này có 107 loại với tổng giá trị 1,6 tỷ USD. Sản phẩm chủ yếu là áo ngực và các phần phụ kiện của quần áo không dệt kim.
Các mặt hàng dệt đã hoàn thiện khác; bộ vải; quần áo dệt cũ và các loại hàng dệt cũ khác; vải vụn (HS 63)
Nhóm này có 50 sản phẩm với tổng giá trị nhập khẩu 604,23 triệu USD. Những sản phẩm chính gồm các sản phẩm may mặc theo mẫu có sẵn, chăn (trừ chăn điện), và khăn nhà bếp từ vải cotton.
Tình hình nhập khẩu dệt may của Việt Nam cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của ngành, đồng thời phản ánh nhu cầu cao đối với các loại nguyên liệu và sản phẩm dệt may phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.

